EPS là một khái niệm quan trọng trong tài chính doanh nghiệp, được ví như "chìa khóa vàng" mở ra cánh cửa tiềm năng đầu tư. Chỉ số này đóng vai trò then chốt trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của một công ty, giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt và hiệu quả.
EPS là một khái niệm quan trọng trong tài chính doanh nghiệp, được ví như "chìa khóa vàng" mở ra cánh cửa tiềm năng đầu tư. Chỉ số này đóng vai trò then chốt trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của một công ty, giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt và hiệu quả.
Giá trị thặng dư được đề cập và nghiên cứu trong học thuyết kinh tế của C.Mác đã phơi trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ trước đây. Giúp khơi nguồn cho phong trào đấu tranh giữa giai cấp vô sản chống lại chủ nghĩa tư bản.
Giá trị thặng dư không chỉ giúp tồn tại xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư còn có thể giúp kinh tế, xã hội phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội.
Giá trị thặng dư cấu thành động lực để giúp kinh tế tăng trưởng và phát triển. Từ đó, các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra những kế hoạch, chiến lược sản xuất để có thể tạo ra nhiều giá trị thặng dư, giúp thu lại lợi nhuận và doanh thu nhiều hơn.
Bên cạnh đó vẫn đảm bảo về quyền lợi, và chế độ đãi ngộ tốt với công nhân, người lao động.
Giá trị thặng dư thúc đẩy doanh nghiệp áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Điều này giúp quá trình sản xuất được tối ưu, năng suất và hiệu suất được nâng cao, giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm, hàng hóa và thu về được nhiều giá trị thặng dư.
Như vậy bài viết trên đây xoay quanh về giá trị thặng dư là gì, nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ, giải đáp chi tiết.
Hy vọng bạn đọc sẽ có những kiến thức bổ ích, và hiểu rõ về ý nghĩa của giá trị thặng dư để áp dụng vào thực tiễn, giúp hoạt động kinh tế trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.
Từ việc hiểu rõ giá trị thặng dư là gì, chúng ta có thể thấy giá trị thặng dư là mục đích sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Giá trị thặng dư có ba đặc trưng về bản chất như sau:
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) là một trong những chi số quan trọng nhất để đánh giá lợi nhuận tuyệt đối của một công ty. Ngoài ra, EPS còn là yếu tố chính cấu thành nên tỷ lệ giá trên lợi nhuận (P/E ratio), trong đó E chính là EPS. Bằng cách chia giá cổ phiếu của công ty (trên thị trường) cho EPS, nhà đầu tư có thể mường tượng giá trị của một cổ phiếu dựa trên mức độ sẵn sàng chi trả của thị trường cho mỗi đồng lợi nhuận.
EPS là một trong nhiều chỉ báo được sử dụng để lựa chọn cổ phiếu đầu tư. Tuy nhiên, việc so sánh EPS theo giá trị tuyệt đối có thể ít ý nghĩa đối với nhà đầu tư vì cổ đông phổ thông không được trực tiếp hưởng lợi nhuận. Thay vào đó, nhà đầu tư sẽ so sánh EPS với giá cổ phiếu để đánh giá mức độ hấp dẫn của lợi nhuận và dự đoán về triển vọng tăng trưởng của công ty trong tương lai.
Các nhà phân tích tài chính thường phân biệt giữa Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu cơ bản (Basic EPS) và Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu pha loãng (Diluted EPS).
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu cơ bản (Basic EPS):
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu pha loãng (Diluted EPS):
Bảng tính ở trên sử dụng công thức để tính toán Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu cơ bản (Basic EPS) cho các công ty được lựa chọn. Basic EPS không tính đến tác động pha loãng (dilutive effect) của các cổ phiếu tiềm năng mà công ty có thể phát hành. Khi cơ cấu vốn của một công ty bao gồm các khoản mục như quyền chọn mua cổ phiếu (stock options), chứng quyền (warrants) hoặc đơn vị cổ phiếu hạn chế (restricted stock units - RSU), những khoản đầu tư này - nếu được thực hiện - có thể làm tăng tổng số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường.
Để minh họa rõ hơn tác động của các chứng khoán bổ sung lên thu nhập trên mỗi cổ phiếu, các công ty cũng báo cáo Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu pha loãng (Diluted EPS), giả định rằng tất cả các cổ phiếu tiềm năng đều đã được phát hành.
Ví dụ, giả sử tổng số cổ phiếu có thể được tạo và phát hành từ các công cụ chuyển đổi của Công ty C vào cuối năm tài chính là 30 triệu cổ phiếu. Nếu con số này được cộng vào tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty, thì tổng số cổ phiếu trung bình được pha loãng (diluted weighted average shares outstanding) của công ty sẽ là 120 triệu + 30 triệu = 150 triệu cổ phiếu. Do đó, Diluted EPS của công ty là 650 tỷ đồng / 150 triệu cổ phiếu = 4.333 đồng/cổ phiếu
Trong một số trường hợp, cần phải điều chỉnh tử số khi tính toán EPS được pha loãng hoàn toàn (fully diluted EPS). Ví dụ, đôi khi người cho vay sẽ cung cấp khoản vay cho phép họ chuyển đổi khoản nợ thành cổ phiếu theo các điều kiện nhất định.
Các cổ phiếu được tạo ra từ khoản nợ chuyển đổi nên được đưa vào mẫu số của phép tính Diluted EPS, nhưng nếu điều đó xảy ra, thì công ty sẽ không phải trả lãi cho khoản nợ đó. Trong trường hợp này, công ty hoặc nhà phân tích sẽ cộng lãi đã trả cho nợ chuyển đổi trở lại vào tử số của phép tính EPS để kết quả không bị bóp méo.
Một khía cạnh quan trọng của EPS thường bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu nhập ròng (lợi nhuận) trong tính toán. Hai công ty có thể tạo ra EPS bằng nhau, nhưng một công ty có thể đạt được điều này với ít tài sản ròng hơn. Điều đó cho thấy công ty đó sử dụng vốn hiệu quả hơn để tạo ra thu nhập và, xét về mọi mặt khác, sẽ là một công ty "tốt hơn" về mặt hiệu quả. Một thước đo có thể được sử dụng để xác định các công ty hiệu quả hơn là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Mặc dù EPS được sử dụng rộng rãi để theo dõi hiệu quả hoạt động của một công ty, nhưng cổ đông không có quyền trực tiếp truy cập vào lợi nhuận đó. Một phần thu nhập có thể được phân phối dưới dạng cổ tức, nhưng công ty có thể giữ lại toàn bộ hoặc một phần EPS. Cổ đông, thông qua đại diện của họ tại hội đồng quản trị, cần thay đổi tỷ lệ EPS được phân phối dưới dạng cổ tức để có thể tiếp cận nhiều hơn với lợi nhuận đó.
Các hàng hóa, sản phẩm được tạo ra trong quá trình người lao động sản xuất, thuộc toàn quyền sở hữu của nhà tư bản, của các ông chủ; chứ không phải của người công nhân. Người công nhân trước khi tham gia vào quá trình sản xuất, họ được nhà tư bản giao ước, và trả công đúng bằng giá trị hàng hóa sức lao động.
Vì vậy tất cả hàng hóa mà người lao động tạo đều là của nhà tư bản, và phần giá trị thặng dư sẽ bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Trong xã hội tư bản trước đây, người lao động bị áp bức, và được trả tiền công rất rẻ mạt; trong khi đó nhà tư bản thì không ngừng giàu có do giá trị thặng dư. Điều này hình thành nên quan hệ bóc lột, và sự bất công sâu sắc trong xã hội.
Nhà tư bản bóc lột sức lao động của người lao động cho bản thân họ. Sự bóc lột càng diễn ra nhiều, thì giá trị thặng dư được tạo ra càng tăng cao. Tạo nên sự phân hóa giữa giàu và nghèo vô cùng sâu sắc trong xã hội. Người giàu ngày càng giàu lên vì họ chiếm đoạt được nhiều giá trị thặng dư , còn người nghèo vẫn hoàn nghèo vì công sức lao động của họ quá đỗi rẻ mạt.