Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội thông báo tuyển sinh, đào tạo trình độ thạc sĩ nhiều chuyên ngành, tạo điều kiện cho các bạn sinh viên đã tốt nghiệp hệ cử nhân có cơ hội học tập, nâng
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội thông báo tuyển sinh, đào tạo trình độ thạc sĩ nhiều chuyên ngành, tạo điều kiện cho các bạn sinh viên đã tốt nghiệp hệ cử nhân có cơ hội học tập, nâng
Nhiều người cho rằng dân tộc Việt Nam có tính thực dụng cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù hợp với mình chứ "Không có sáng tạo, chỉ có vay mượn; chỉ có áp dụng, chỉ có thích nghi. Đó là sự thật của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt". Tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc mang tính giáo điều thiếu sáng tạo, là sự thu nhỏ của triết học Ấn Độ và Trung Quốc. Ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng không sâu, thiên về sùng bái, thờ cúng, cầu xin cho bản thân hơn là thiên về giáo lý. Điều này do người Việt học hỏi nhanh nhưng hiểu biết không sâu sắc, thiếu hệ thống, không mấy ai có trí tuệ lỗi lạc phi thường, hiếm có những người xem học thuật là sự nghiệp cả đời. Người Việt có nhiều khả năng nghệ thuật hơn khoa học; nhiều trực giác hơn lý luận; tư duy thiếu chiều sâu, thiếu hệ thống; óc sáng tạo ít, nhưng bắt chước, thích ứng, dung hòa thì tài... Tư duy người Việt không có ưu thế về phân tích, tổng hợp, thực nghiệm khoa học, quy nạp, suy luận logic, trừu tượng hóa mà thiên về kinh nghiệm cá nhân, trực giác, cảm tính.
Người Việt không tự nghĩ ra được triết thuyết nào mà chỉ tiếp thu các học thuyết triết học từ bên ngoài nhưng lại không có hiểu biết sâu sắc, nói một đằng làm một nẻo và dễ dàng vứt bỏ chúng khi thời cuộc thay đổi. Các tư tưởng triết học được du nhập vào Việt Nam đều bị giản lược hóa và biến thành giáo điều[3]. Vũ Trọng Phụng nhận xét về sự du nhập tư tưởng của người Việt "Tôi tin rằng đất Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng cũng cứ đến đây là thành thối nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều tín ngưỡng nào, một quan điểm chắc chắn gì[4]". Các văn bản còn lưu giữ được đến ngày nay cho thấy người Việt đã không có nỗ lực nào để hiểu sâu sắc bản chất của những gì họ thấy hay đặt vấn đề những gì họ thấy có phản ánh đúng bản chất của đối tượng hay không. Tư duy của người Việt hoàn toàn xa lạ với siêu hình học. Đào Duy Anh nhận xét về người Việt "Về tính chất tinh thần, thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực[5]". Điều này có thể do Việt Nam chưa bao giờ là xứ sở giàu có nên người ta xem trọng những nhu cầu vật chất hơn tinh thần. Thạch Lam nhận xét "Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược... Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no[6]".
Ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chung chứ không có lịch sử tư tưởng triết học. Nếu có tư tưởng triết học thì chỉ là những dạng triết lý chứ không gọi là tư tưởng triết học[2]. Xu hướng này tuyệt đối hóa tính hệ thống của triết học. Trên thực tế, nhiều nhà tư tưởng của thế giới cổ đại cũng chỉ đưa ra các câu châm ngôn, các triết lý nhân sinh, khái quát vài nét, một số hiện tượng nào đó của tự nhiên chứ không phải ai cũng xây dựng các hệ thống tư tưởng, quan điểm hoàn chỉnh như các nhà triết học nổi danh hàng đầu, tiêu biểu như Platon, Aristoteles trở đi. Qua giao lưu, tiếp biến, tích hợp từ nhiều nguồn khác nhau trên nền văn hoá lúa nước trong điều kiện lịch sử có nhiều cuộc chiến tranh, con người Việt Nam Cổ trung đại chưa có điều kiện để hoàn chỉnh và nâng cao hệ thống triết lý bản địa. Hơn nữa, tư duy người Việt thiên về trực quan nên cũng không thuận tiện cho triết học phát triển nên triết học Cổ đại và Trung đại Việt Nam vẫn chưa phải là một hệ thống hoàn chỉnh, có đường nét rõ ràng và chưa thể sánh ngang tầm với triết học Ấn – Hoa. Về cơ bản, các phạm trù triết học Việt Nam Cổ trung đại vẫn trong môi trường Triết học phương Đông, thuộc loại hình Triết học vĩnh cửu (Philosophia perennis).
Trong quá trình giao lưu với văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây, tư duy triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh vẫn giữ vai trò chủ thể để tiếp biến văn hoá ngoại lai.
Chẳng hạn, tính vô vi xuất thế trong Phật giáo Ấn Độ, còn Phật giáo Việt Nam lại hữu vi nhập thế. Nghĩa là nhà chùa có ruộng có vườn, nhập thế cùng thế gian làm việc. Phật giáo trước khi vào Việt Nam thì vô ngã, nghĩa là không có cá nhân, không có cái tôi. Nhưng khi vào Việt Nam nó biến hiện thành sức mạnh cá nhân và phải được nhập vào sức mạnh cộng đồng.[cần dẫn nguồn]
Đạo giáo từ Trung Quốc sang. Khi còn ở Trung Quốc thì nó gắn với tầng lớp quan lại trí thức thất thế, từ bỏ chốn quan trường, xa lánh chính trị, trở về sống gần gũi với thiên nhiên, về "cõi bồng lai thiên cảnh". Nhưng khi vào đến Việt Nam thì con người lại gắn với trời đất, thần thánh đạo giáo để giáo dục đạo đức xã hội, ổn định gia đình, gắn gia đình với cộng đồng.[cần dẫn nguồn]
Tư tưởng chủ đạo của Nho giáo là thiết lập về đức trị, nhân trị, lễ trị. Do đó có sự phân chia giai cấp, thế hệ, giới tính. Nhưng khi vào Việt Nam những chuẩn mực đó đã hòa vào thiết chế cộng đồng làng xã. Người Việt ứng xử theo kiểu: "phép vua thua lệ làng", tính đẳng cấp có, nhưng không khắt khe. Văn hoá Nho giáo là một loại văn hoá mạnh, đồ sộ và choáng ngợp, do đó nhiều thời kỳ nó áp đặt văn hoá cho các dân tộc khác. Tuy nhiên Nho giáo sang Việt Nam lại biến đổi. Do tính bản địa mạnh nên tư duy người Việt không bị đồng hoá.[cần dẫn nguồn]
Gần đây, khoa học xã hội đã có những thành tựu được công bố liên quan đến hệ thống phạm trù triết học Trung đại Việt Nam như "Các phạm trù văn hóa Trung cổ", "Hệ thống quan niệm văn học Trung Quốc", "Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại Việt Nam". Trước hết, phương thức tiếp cận vấn đề phạm trù triết học Việt Nam Cổ trung đại không tách rời khỏi hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. Thao tác tiếp cận cần lưu ý giới hạn, chọn lọc, khu biệt những nguyên tắc vận dụng, chỉ tập trung vào những nguyên tắc có ý nghĩa, nằm ở tính hợp lý. Con người không thể tách khỏi môi trường tự nhiên, xã hội và thế giới nội tâm. Những nguồn thông tin được thu thập xuất phát từ khoa học khảo cổ, văn hóa học, lịch sử, xã hội học, từ các văn bia, lễ hội, những biểu tượng, những tác phẩm văn học dân gian, văn học viết (trong dạng thức văn - sử - triết bất phân), những khuôn mẫu được thừa nhận, những tác phẩm "văn học hóa" triết học... Trong văn học, cần lưu ý các tác phẩm: tục ngữ, ca dao (chứa những tư tưởng triết học rời rạc được phát biểu gần như vô thức), truyện thơ Nôm, các tác phẩm của Khương Tăng Hội, Mâu Tử, văn học đời Lý – Trần, "Thiền uyển tập anh". Các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du...
Đối chiếu, chú giải các tài liệu thu được, chồng các văn bản văn - sử - triết phức hợp ấy với nhau có thể tìm ra được những ký hiệu triết học Việt Nam. Sau đó bằng các thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa ta có được những quan niệm phạm trù quy luật cơ bản. Những phạm trù này liên hệ với nhau theo một sơ đồ lập thể (cubism) hoặc hình mạng (network), một phạm trù có thể liên hệ với tất cả các phạm trù khác nhưng đồng thời một phạm trù cũng tương tác – tương nhập với các phạm trù khác tạo thành những hệ thống nhỏ. Từ các hệ thống nhỏ này lại liên hệ nhau tạo thành hệ thống mang tính chỉnh thể. Đạo lý tự nhiên bao giờ cũng bao trùm các phạm trù khác, thẩm thấu các phạm trù khác như Ngô Thời Nhậm đã viết "Đạo có cơ sở là cái lý tự nhiên, mà gốc là tình người[7]".
Có nhiều phạm trù vay mượn vỏ ngôn ngữ Ấn Độ và Trung Hoa nhưng đã được chọn lọc và đi vào văn hoá dân gian, văn hoá dân tộc, nó có hiện tượng khác đi bởi môi trường văn hoá Việt Nam, hoặc có khi được sử dụng với thang giá trị mới của người Việt. Nên từ đó, nhiều phạm trù đã đi xa hơn, tạo một khoảng cách đáng kể với kinh điển chính thống để nhập cuộc vào cuộc sống thiết thực rất đời thường. Người Việt "chỉ tiếp thu những gì phù hợp với đạo lý có sẵn ở Việt Nam" và "những học thuyết, tôn giáo từ nước ngoài... được khai thác, vận dụng kết hợp với lương tri nhân dân để trở thành triết lý đạo đức dân gian".[8] Từ những phạm trù triết học được xác lập, ta có thể góp phần tạo những cơ sở cần thiết cho khoa học lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong thế vận động, ta có điều kiện để tìm thấy những tiền đề cần thiết trong sự giao lưu với tư tưởng triết học phương Tây. Việc nghiên cứu triết học Việt Nam góp phần giải thích lịch sử bằng triết học xã hội, triết học chính trị.
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam[9]. Tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển[10], đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam[9]. Tư tưởng nhân nghĩa là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông.